Thứ Tư, 7 tháng 12, 2016

Cùng tìm hiểu vấn đề xuất khẩu và chế biến gỗ: Đóng thùng đựng 6,5 tỷ đô

Về phía DN, mỗi công ty tập trung khắc phục các điểm yếu và nhìn xa trông rộng về các cơ hội sẽ đến trong tương lai. Cụ thể, năm 2014, Gỗ Trường Thành (TTF) dành ưu tiên cho tái cấu trúc tài chính vì trong năm 2013, chính những khó khăn tài chính khiến TTF không thể thực hiện các đơn hàng, bỏ mất nhiều khách hàng và giảm sút uy tín.
Cờ đã đến tay
Nhiều nhà máy chế biến gỗ tại Ý, Đức, Mỹ đã đóng cửa hoặc thu hẹp sản xuất do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế; đồ gỗ Trung Quốc đang bị Mỹ áp thuế chống bán phá giá cao nhất, làm mất lợi thế cạnh tranh. Trong bối cảnh đó, ngành gỗ Việt Nam càng có nhiều cơ hội để mở rộng thị trường trị giá 300 tỷ USD mỗi năm.
Theo thống kê từ Tổng cục Hải quan, 9 tháng năm 2014, xuất khẩu (XK) gỗ và sản phẩm gỗ đã đạt 4,45 tỷ USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm 2013. Tại hầu hết các thị trường, kim ngạch XK gỗ và các sản phẩm gỗ đều có sự tăng trưởng, trong đó Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường dẫn đầu về kim ngạch với 1,6 tỷ USD, chiếm 36,1% tổng kim ngạch.
Nhật Bản là thị trường XK lớn thứ 2, đạt 0,7 tỷ USD, tăng 22,0% so với cùng kỳ, chiếm 15,9% tổng kim ngạch. Thị trường Trung Quốc dù có sự sụt giảm 10,2% so với cùng kỳ 2013 nhưng lại là thị trường lớn thứ 3 với tổng trị giá xuất khẩu trong 9 tháng năm 2014 đạt 0,6 tỷ USD, chiếm 14,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của gỗ.
Gỗ và các sản phẩm từ gỗ hiện xếp thứ 7 trong 10 mặt hàng XK lớn nhất hiện nay của Việt Nam. Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFORES), với tốc độ phát triển bình quân 2 chữ số liên tục nhiều năm, ngành chế biến XK gỗ Việt Nam đang chạm đích mục tiêu 6,5 tỷ USD cho năm 2014.
Ông Nguyễn Tôn Quyền, Phó chủ tịch VIFORES, tiết lộ thêm, tới thời điểm này các doanh nghiệp (DN) đều có hợp đồng hết năm 2014, nhiều đơn vị đang đàm phán đơn hàng cho năm 2015. Đặc biệt, 3 tháng cuối năm luôn là cao điểm làm hàng XK của ngành gỗ nên DN phải làm việc liên tục, hết công suất mới kịp giao những đơn hàng đã ký với các đối tác.
Thực tế, từ nhiều năm qua, ngành chế biến và XK sản phẩm gỗ đã có những bước phát triển vượt bậc. Nếu như năm 2000, giá trị XK các sản phẩm gỗ của Việt Nam mới ở mức khiêm tốn là 214 triệu USD thì đến năm 2004, kim ngạch đã lần đầu tiên vượt mốc 1 tỷ USD (1,154 tỷ USD).
Suốt giai đoạn 2001-2012, kim ngạch XK các sản phẩm gỗ của Việt Nam tiếp tục tăng theo hướng năm sau luôn cao hơn năm trước (trừ năm 2009). Năm 2013, kim ngạch XK gỗ tiếp tục tăng 19,2%, đạt 5,7 tỷ USD, chiếm khoảng 1,5% thị phần toàn cầu. Với thị phần này, Việt Nam đã trở thành quốc gia đứng thứ 6 thế giới, đứng thứ 2 châu Á và đứng đầu Đông Nam Á về XK gỗ và các sản phẩm từ gỗ.
Cùng với sự tăng trưởng về kim ngạch XK, thị trường XK các sản phẩm gỗ cũng không ngừng được mở rộng. Nếu năm 2003, sản phẩm gỗ Việt Nam chỉ XK vào hơn 6 quốc gia và vùng lãnh thổ thì đến nay đã có mặt tại trên 120 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Ngoài Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc là 3 thị trường chính đang chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch XK, đồ gỗ Việt Nam còn được xuất khẩu mạnh sang các nước Hàn Quốc, Úc và Canada...
Sở dĩ đồ gỗ Việt Nam có thể đạt tăng trưởng nhanh và xâm nhập được vào các thị trường lớn là do có chất lượng tốt, mẫu mã cải tiến, giá cả hấp dẫn. Ngoài ra, nhu cầu tiêu thụ đồ gỗ thế giới luôn cao. Hiện tại, quy mô thị trường đồ gỗ thế giới đang ở mức 300 tỷ USD/năm. Trong khi đó, kim ngạch XK đồ gỗ và gỗ của Việt Nam vẫn ở mức thị phần khiêm tốn 1 - 1,5%.
"Nếu có chính sách ưu tiên phát triển, Việt Nam có thể nâng thị phần xuất khẩu đồ gỗ hằng năm từ 1,5% lên 5%, tương đương 15 tỷ USD trong 5 - 7 năm tới", ông Huỳnh Văn Hạnh, Phó chủ tịch Hiệp hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM (Hawa) chia sẻ.
Theo ông Hạnh, trong bối cảnh nhiều nhà máy chế biến gỗ tại Ý, Đức, Mỹ đã đóng cửa hoặc thu hẹp sản xuất do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế và đồ gỗ XK của một số nước như Trung Quốc đang bị Mỹ áp thuế chống bán phá giá cao nhất, làm mất lợi thế cạnh tranh thì ngành gỗ Việt Nam càng có nhiều cơ hội để mở rộng thị trường, thị phần.
Thời cơ vàng cho XK đồ gỗ cũng đến khi Việt Nam chuẩn bị ký kết hàng loạt những hiệp định quan trọng như Hiệp định Đối tác tự nguyện Việt Nam - EU (VPA/FLEGT), Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), FTA Việt Nam - EU... Dự kiến, việc ký kết VPA/FLEGT sẽ diễn ra vào nửa đầu năm 2015.
Khi đó, theo ông Nguyễn Tôn Quyền, các DN XK gỗ Việt Nam sẽ phải tuân thủ những yêu cầu kỹ thuật liên quan đến nguồn gốc gỗ hợp pháp theo chương trình Thực thi lâm luật, quản trị rừng và thương mại lâm sản (FLEGT).
Đổi lại, sản phẩm gỗ sẽ được xuất đi nhiều nước trong khối EU hơn, được bán với giá cao hơn và giảm tình trạng chế biến gỗ bất hợp pháp. Với TPP, sau ký kết, thuế suất cắt giảm sẽ mở ra nhiều cơ hội hơn cho Việt Nam thâm nhập vào các quốc gia cùng ký hiệp định này.
Đi tìm lợi thế
DN gỗ Việt Nam sẽ tạo ra lợi thế vượt trội nếu có thể xây dựng thương hiệu sản phẩm, biết cách tiếp thị và phân phối, đồng thời tạo ra được những sản phẩm có thiết kế phù hợp với từng thị trường.
Để khắc phục những tồn tại của ngành gỗ và đón thời cơ mới, ông Phan Chí Dũng, Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nhẹ - Bộ Công Thương, kiến nghị Nhà nước cần xây dựng quy hoạch phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ và vùng nguyên liệu để làm căn cứ cho các DN định hướng trong đầu tư phát triển.
Nhà nước cần tạo điều kiện cho DN, làng nghề, hộ gia đình chế biến gỗ được tiếp cận với nguồn vốn vay để đầu tư thiết bị hiện đại và đáp ứng nhu cầu vốn lưu động phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Có biện pháp để giảm chi phí cho các DN nhất là điện, nước, vận tải và phí xuất nhập khẩu...
Ông Huỳnh Văn Hạnh, Phó chủ tịch Hawa, nhấn mạnh đến khía cạnh ngành gỗ phải tìm cách giải quyết hàng loạt vấn đề như: nâng cao tỷ lệ sử dụng hiệu quả gỗ và giảm chi phí vận chuyển bằng thúc đẩy khâu sản xuất trung gian (các loại ván nhân tạo, gỗ ghép...) ngay tại các vùng trồng rừng tập trung; giải trình nguồn gốc gỗ hợp pháp, kiểm soát hàng tạm nhập và tái xuất để lấy xuất xứ sau khi Việt Nam ký TPP...
Đặc biệt, theo các chuyên gia, Việt Nam có thể tận dụng cơ hội nâng cấp máy móc hiện đại với giá rẻ trong bối cảnh nhiều công ty gỗ ở Mỹ, Canada, Ý, Đức đóng cửa đang rao bán máy móc thiết bị tuy đã qua sử dụng nhưng còn giá trị.
DN gỗ Việt Nam sẽ tạo ra lợi thế vượt trội nếu có thể xây dựng thương hiệu sản phẩm, biết cách tiếp thị và phân phối, đồng thời tạo ra được những sản phẩm có thiết kế phù hợp với từng thị trường. AA là một điển hình.
Trong 2 năm qua, dù thị trường khó khăn nhưng nhờ thương hiệu tốt, AA vẫn trúng thầu 2 dự án lớn là InterContinential Đà Nẵng và JWMariot ở Hà Nội. Nhiều chuyên gia cho rằng, DN cần tập trung phát triển các sản phẩm có ưu thế cạnh tranh cao như đồ gỗ nội thất, đồ gỗ ngoài trời và đồ mộc mỹ nghệ,...
Đồng thời, tăng cường trồng rừng để từng bước đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho chế biến, giảm dần sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu và nâng giá trị gia tăng của các sản phẩm chế biến.
Về phía DN, mỗi công ty tập trung khắc phục các điểm yếu và nhìn xa trông rộng về các cơ hội sẽ đến trong tương lai. Cụ thể, năm 2014, Gỗ Trường Thành (TTF) dành ưu tiên cho tái cấu trúc tài chính vì trong năm 2013, chính những khó khăn tài chính khiến TTF không thể thực hiện các đơn hàng, bỏ mất nhiều khách hàng và giảm sút uy tín.
Đến tháng 6/2014, Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC) đã mua 543 tỷ đồng khoản nợ của TTF tại Vietcombank, đồng thời có kế hoạch mua thêm 350 tỷ đồng. Song hành đó, TTF cũng đã tăng vốn, nhờ đó đòn bẩy nợ của Công ty có sự thay đổi đáng kể. TTF cũng được Ngân hàng Việt Á cam kết bơm 250 tỷ đồng nên quý III vừa qua, sản xuất của Công ty đã khởi sắc.
Với những động thái tái cấu trúc mạnh mẽ, ông Võ Trường Thành cho biết, 2 tháng gần đây, công suất hoạt động của các nhà máy của TTF đã tăng trở lại, từ 30 - 35% lên 60% và kỳ vọng đạt 70% trong quý IV này. Đến nay, TTF đã đi được 2/3 chặng đường tái cấu trúc, dự kiến hoàn thành chậm nhất vào cuối quý I/2015.
Song song nhiệm vụ tái cấu trúc tài chính, TTF còn đặt mục tiêu chủ động hơn về vùng nguyên liệu để đón đầu các cơ hội mới. Từ tháng 3 năm nay, hơn 11.000ha rừng trồng từ 10 tuổi trở lên của TTF đã được đưa vào kế hoạch khai thác luân kỳ. Dự kiến đến cuối năm sẽ khai thác được khoảng 500ha, thu về 30 - 40 tỷ đồng.
Từ năm 2015, mỗi năm công ty sẽ khai thác 1.000ha, giúp đem lại lợi nhuận khoảng 80 tỷ đồng. Đặc biệt, với diện tích rừng vào độ tuổi khai thác như trên, TTF có thể chủ động được 90% nguyên liệu sản xuất và cung cấp gỗ cho các xưởng veneer trong nước hoặc XK sang Hoa Kỳ, Nhật Bản.
Mục tiêu 15 tỷ USD
Mặc dù có những tăng trưởng ấn tượng về kim ngạch XK nhưng theo các chuyên gia, XK gỗ và đồ gỗ vẫn chưa thực sự bền vững. Đặc biệt, để vươn tới con số xuất khẩu 15 - 20 tỷ USD, Nhà nước lẫn DN phải cùng đưa ra những giải pháp hiệu quả để thu hẹp các rào cản trong ngành gỗ.
Hiện tại, trong hơn 3.000 DN tham gia vào ngành gỗ, chỉ một số ít DN như Công ty AA là có thể chủ động đầu tư công nghệ, thiết bị và có khả năng tự sản xuất theo thiết kế, tìm kiếm thị trường tiêu thụ, nâng cao giá trị gia tăng. Còn lại, đa số DN vẫn sử dụng thiết bị lạc hậu, quản lý hạn chế, thiếu chiến lược kinh doanh... Kết quả, sản phẩm làm ra có giá thành cao, khó cạnh tranh.
Một điểm yếu phải kể đến của ngành gỗ Việt Nam hiện nay là chưa tìm được sự gắn kết chặt chẽ giữa các công ty lâm nghiệp với DN chế biến gỗ. Vì thế, sản phẩm gỗ Việt Nam vẫn dựa nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu.
Ông Nguyễn Mạnh Dũng, Trưởng Phòng Chế biến, Cục Chế biến Nông lâm thủy sản và nghề muối (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) nhận định, việc phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu không chỉ khiến DN chế biến gỗ gặp rủi ro và khá bị động trong sản xuất, kinh doanh mà còn đẩy chi phí sản phẩm lên cao. Theo tính toán từ các DN, nguyên liệu nhập khẩu chiếm tới 35 - 45% giá thành sản phẩm.
Các chuyên gia phân tích thêm, do đặc thù ngành sản xuất, chế biến gỗ cần vốn lớn trong khi quy mô các đơn vị chủ yếu là vừa và nhỏ nên ngành gỗ rất nhạy cảm với sự thay đổi của thị trường. Thậm chí, ngay cả DN tên tuổi như Gỗ Trường Thành (TTF) cũng đã lao đao không ít vì nợ.
Tính đến cuối tháng 6/2014, tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu của TTF là 230%, tương đương cuối năm 2013. Ông Võ Trường Thành, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc TTF, cho biết, trung bình mỗi năm TTF trả lãi 230 tỷ đồng. Nợ nần khiến nguồn vốn lưu động của TTF bị bế tắc và kinh doanh có lúc tưởng phải ngưng lại.
Các luật, hiệp định liên quan đến xuất khẩu gỗ
VPA/FLEGT là hiệp định thương mại song phương ký giữa EU với đối tác quốc gia XK gỗ và sản phẩm gỗ. Theo đó đối tác quốc gia cam kết chỉ XK vào EU gỗ và các sản phẩm gỗ hợp pháp. Quốc gia đối tác thiết lập hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp để xác minh và cấp phép FLEGT cho gỗ và sản phẩm gỗ sẽ XK vào EU. Một cơ quan giám sát độc lập sẽ được hai bên nhất trí làm nhiệm vụ giám sát hệ thống này và cấp phép FLEGT sau khi hiệp định ký kết.
Năng suất lao động thấp cũng là lý do đẩy chi phí sản xuất tăng lên. Hiện tại, năng suất sản lao động của Việt Nam chỉ bằng 1/3 năng suất của Trung Quốc.
Với những hạn chế kể trên, VIFORES đã khuyến cáo các DN nên tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu trong nước, giảm nhập khẩu gỗ, tính toán lại dây chuyền sản xuất, nâng cao năng suất lao động, xây dựng quá trình làm việc hiệu quả và tiết kiệm tối đa chi phí.
Đối với những biến chuyển từ hội nhập kinh tế quốc tế, đi cùng cơ hội là không ít thách thức. Đạo luật Lacey của Mỹ đặt ra vấn đề kiểm soát nguồn gốc gỗ nguyên liệu. Riêng quy định VPA/FLEGT một khi được thực thi, không những buộc DN phải nói không với gỗ bất hợp pháp mà dự kiến sẽ tác động khá lớn đến chu trình kinh doanh của DN.
Theo đại diện của Forest Trend, một tổ chức phi lợi nhuận, định nghĩa gỗ bất hợp pháp rất rộng, dựa trên nhiều tiêu chí. Ví dụ xét về tiêu chí xã hội thì gỗ trồng trên đất đang có xung đột, tranh chấp là gỗ không hợp pháp. Tiêu chí kinh tế là người tham gia khai thác, vận chuyển phải tham gia đầy đủ yêu cầu về thuế, phí.
Tiêu chí môi trường là các tổ chức, cá nhân tham gia chuỗi sản xuất phải cùng tuân thủ yêu cầu, tiêu chí về môi trường. Đây là một thách thức rất lớn cho thị trường gỗ Việt Nam, nơi mà người trồng rừng đa số là các chủ hộ chưa được trang bị kiến thức hay những kỹ năng cần thiết về bảo vệ môi trường và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về thuế, phí.

Khó khăn cho nông dân: Rau quả Việt vào Hoa Kỳ: Đường còn gập ghềnh

Nhưng các chuyên gia cũng nhận định rằng để các sản phẩm hoa quả rộng đường sang Hoa Kỳ, cần có sự liên kết chặt chẽ giữa các DN để nâng sức cạnh tranh cho sản phẩm. Bởi, yêu cầu rau quả nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ rất khắt khe về an toàn thực phẩm, DN cần đầu tư dây chuyền thiết bị với vốn đầu tư lớn, các đơn vị kinh doanh nhỏ rất khó đáp ứng được yêu cầu.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trung bình mỗi tháng xuất khẩu (XK) rau quả của Việt Nam đạt khoảng 120 triệu USD. Với tốc độ tăng trưởng cao như hiện nay, XK rau quả có thể mang về cho Việt Nam khoảng 1,4 tỷ USD. Đây là con số cao nhất từ trước đến nay.
Vẫn phụ thuộc Trung Quốc
Những năm gần đây, mặt hàng rau quả của Việt Nam đã có sự tăng trưởng nhanh và khá vững chắc với tốc độ 30%/năm. Năm 2013, kim ngạch XK mặt hàng rau quả đạt 1,07 tỷ USD, tăng 29,8% so với cùng kỳ năm ngoái, đây là mức kim ngạch cao nhất từ năm 2009 đến nay, cũng là lần đầu tiên XK rau quả đạt mức kim ngạch tỷ USD.
Đáng lưu ý, trong 9 tháng đầu năm 2014, 2 thị trường có sự tăng trưởng kim ngạch đột biến so với cùng kỳ năm 2013, đó là Hồng Kông (tăng 170,40%; đạt 11,04 triệu USD) và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất (tăng 129,71% với 9,12 triệu USD). Hầu hết các thị trường còn lại đều có sự tăng trưởng dương. Điều này cho thấy mặt hàng rau quả Việt Nam có nhiều cơ hội đẩy mạnh XK sang các nước trên thế giới.
Ông Nguyễn Văn Kỳ - Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit) cho biết, chỉ qua 10 tháng, ngành rau quả đã đạt kế hoạch mà Bộ Công Thương đặt ra cho cả năm nay với trị giá XK đạt hơn 1,2 tỷ USD. Năm 2013, XK rau quả đạt mốc trên 1 tỷ USD trong khi năm 2012 đạt 827 triệu USD.
Tuy xuất khẩu rau quả có mức tăng trưởng mạnh nhưng số liệu thống kê cũng cho thấy, rau quả Việt Nam vẫn còn phụ thuộc nhiều vào thị trường Trung Quốc với 1/3 giá trị XK mỗi năm; tiếp đến là các thị trường Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc, Hà Lan...
Tính đến hết quý III/2014, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, vẫn là 3 thị trường lớn nhập khẩu mặt hàng rau quả của Việt Nam. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất, với 321,48 triệu USD, tăng 43,84% so với cùng kỳ 2013.
Cơ hội từ Hoa Kỳ
Trong nhóm hàng rau quả XK sang thị trường Hoa Kỳ, ngoài thanh long và chôm chôm, mới đây nhãn và vải đã chính thức được Hoa Kỳ “mở cửa”.
Nhưng các chuyên gia cũng nhận định rằng để các sản phẩm hoa quả rộng đường sang Hoa Kỳ, cần có sự liên kết chặt chẽ giữa các DN để nâng sức cạnh tranh cho sản phẩm. Bởi, yêu cầu rau quả nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ rất khắt khe về an toàn thực phẩm, DN cần đầu tư dây chuyền thiết bị với vốn đầu tư lớn, các đơn vị kinh doanh nhỏ rất khó đáp ứng được yêu cầu.
Trong thời gian qua ở ngay cả những thị trường đã quen thuộc, nhiều sản phẩm tươi khi xuất qua các thị trường như Trung Quốc, EU đã ít nhiều bị cảnh báo về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt ngưỡng quy định. Mới đây, EU đã tăng tần suất kiểm tra lên 20% để phân tích tồn dư thuốc bảo vệ thực vật đối với thanh long Việt Nam.
Vốn đầu tư lớn trong khi lượng hàng XK sang Hoa Kỳ chưa nhiều nên nhiều DN XK trái cây của Việt Nam không dám mở rộng đầu tư vì còn lo lắng về hiệu quả. Như với quả thanh long, theo tính toán, để xuất sang Hoa Kỳ, tổng quá trình đầu tư cho sản phẩm mất từ 6 - 8 USD/kg, chi phí vận chuyển cũng lớn do xa nên giá thành cao, sản phẩm khó cạnh tranh.
Nếu so với một số thị trường nhập khẩu khác như các nước trong khối ASEAN - đầu tư không lớn, chỉ cần vùng trồng đạt tiêu chuẩn VietGap là có thể XK, các DN thường chọn con đường “an toàn” hơn, dù giá trị thu về có thể ít hơn.
Do đó, khi Hoa Kỳ chính thức “mở cửa” với nhãn và vải, nhiều DN khá lo ngại nếu không có sự hỗ trợ của Nhà nước, con đường của hai loại quả này cũng sẽ gặp không ít gập ghềnh, giống như với thanh long.

Tìm lời giải cho câu hỏi: Ai soán được ngôi Thế Giới Di Động?

Việc này vừa giúp TGDĐ nhanh chóng tăng vốn điều lệ, vốn sở hữu để phát triển mạng lưới. Đầu năm 2014, vốn điều lệ của TGDĐ chỉ nằm ở mức chưa đầy 110 tỷ đồng nhưng đến cuối quý 2/2014 đã lên đến 627 tỷ đồng. Và ngay sau khi lên sàn, tốc độ mở điểm bán mới của TGDĐ đã tăng đáng kể, từ 230 cửa hàng vào cuối tháng 5 đã lên 304 cửa hàng vào cuối tháng 10.
FPT Shop trở lại
Sự xuất hiện của FPT Shop mang đến động lực mới trong cuộc đua giành thị phần của lĩnh vực phân phối thiết bị di động.
Liên tiếp từ năm 2013 đến nay, FPT Shop đã khá thành công sau khi cải tổ mọi hoạt động. Công bố doanh thu 6 tháng đầu năm cho thấy, mảng kinh doanh bán lẻ mang lại lợi nhuận cao cho FPT. Cụ thể, hai chuỗi cửa hàng FPT Shop và F.Studio by FPT (thuộc FPT Retail) đạt doanh thu hơn 2.100 tỷ đồng, tăng 81% so với cùng kỳ năm 2013, đạt 17 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế.
Trong đó, doanh thu từ hệ thống cửa hàng FPT Shop tăng đến 180% còn doanh thu từ việc phân phối iPhone đã tăng gần 4 lần so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt, mảng kinh doanh online của Công ty tăng trưởng đến 600%.
Sự trở lại đầy ngoạn mục của FPT Retail mà cụ thể là hệ thống cửa hàng FPT Shop đang được xem là "đối thủ đáng gờm" của TGDĐ. Chia sẻ từ FPT Retail cho thấy, hai năm nay, sau khi đầu tư xây dựng lại hình ảnh, đổi tên hệ thống cửa hàng thành FPT Shop và đẩy mạnh đầu tư, FPT Retail đã đạt kết quả ngoài mong đợi (tăng 180% và là năm đầu tiên có lãi).
Giới kinh doanh đánh giá rằng, trước đây, FPT Shop chủ yếu làm nhiệm vụ "xây dựng hình ảnh" là chính, vì thế, hiệu quả kinh doanh chưa đạt như mong muốn. Tuy nhiên, sau 2 lần cải tổ, FTP Shop đã thay đổi và trở thành một đối thủ nặng ký của nhiều thương hiệu bán lẻ ĐTDĐ và hàng công nghệ số.
Một loạt các hoạt động được chủ thương hiệu bán lẻ này triển khai từ giữa năm 2013 đến nay nhằm mục tiêu "phân chia lại thị 3 tỷ USD" đã được tính toán kỹ. Cụ thể, FPT Retail tập trung vào việc phát triển hệ thống FPT Shop và nâng cấp chất lượng sản phẩm, dịch vụ.
Theo chia sẻ của bà Nguyễn Thị Bạch Điệp, Tổng giám đốc Công ty CP Bán lẻ kỹ thuật số FPT (FPT Retail), do bắt đầu chậm hơn các hệ thống khác nên năm 2014, FPT Shop vừa mở rộng quy mô theo chiều rộng vừa hoàn thiện về chất lượng sản phẩm, dịch vụ theo chiều sâu.
Không "nói suông", ban lãnh đạo FPT Shop đã nhanh chóng bắt tay vào việc thực hiện và với sự hậu thuẫn từ Tập đoàn FPT, chỉ sau chưa đầy 2 năm làm mới, FPT Shop đã đạt con số 130 cửa hàng ở nhiều tỉnh - thành. Chưa dừng lại ở con số này, FPT Shop đặt mục tiêu hoàn thành 150 cửa hàng đến cuối năm nay.
Cùng với kế hoạch ấy, FPT Shop thay đổi toàn diện cách trang trí cửa hàng cũng như cung cách phục vụ khách hàng. Nếu như trước đây, FPT Shop chủ yếu là nơi để trưng bày hàng hóa và mới chỉ "chạm" đến hệ thống đại lý với doanh thu mỗi hoá đơn hàng tỷ đồng thì hiện tại họ đã thấy được tầm quan trọng của việc "chạm" đến từng khách hàng cuối cùng.
Cách làm của FPT Shop khiến người ta nghĩ đến sự "thách thức" TGDĐ khi đánh trực diện vào thương hiệu đứng đầu thị trường ĐTDĐ. Điều này thấy rõ trong động thái mở cửa hàng của FPT Shop. Gần như ở bất cứ vị trí đẹp trong nội thành có mặt TGDĐ thì người ta lại thấy sự xuất hiện của cửa hàng FPT Shop.
Gọi FPT Shop "trở lại" vì trước đây, năm 2008, FPT Shop đã từng đầu tư vào cửa hàng bán lẻ nhưng thất bại. Và lần này, có lý do mạnh mẽ để FPT Shop "lấn sâu" vào lĩnh vực này. Báo cáo mới nhất của Công ty Nghiên cứu thị trường GfK Việt Nam, năm 2013, tổng doanh số các sản phẩm điện tử - điện máy tại Việt Nam đạt khoảng 5,4 tỷ USD.
Trong đó, số tiền tiêu dùng cho điện thoại lên tới gần 2 tỷ USD, tăng 33% so với năm trước. Nếu xếp theo tỷ trọng doanh thu thì ngành hàng chủ lực của FPT Shop gồm điện thoại, Apple, máy tính, phụ kiện, dịch vụ, máy cũ.
Bà Nguyễn Thị Bạch Điệp cho biết, thị trường dành cho các ngành bán lẻ Việt Nam vẫn còn rộng và cuộc đua về số lượng cửa hàng vẫn sẽ được tiếp tục trong thời gian tới. Với chiến lược bài bản, lãnh đạo thương hiệu này tự tin đạt doanh thu 4.000 tỷ đồng và lãi 24 tỷ đồng trong năm nay.
Thị trường chia bốn
Dù FPT Shop hay Viettel, Viễn Thông A đang tăng tốc thì ngôi đầu của TGDĐ vẫn rất khó thay đổi trong thời gian ngắn.
Theo Công ty Nghiên cứu thị trường GfK, trong 3 tháng đầu năm 2014, tổng chi tiêu cho điện thoại và máy tính bảng tại thị trường Việt Nam đạt hơn 16.000 tỷ đồng. Trong đó, riêng ĐTDĐ là 13.900 tỷ đồng, tăng 37% so với qúy I/2013. Sự phát triển liên tục của thị trường điện thoại khiến các các DN liên tục mở rộng đầu tư.
Các nhà kinh doanh cho rằng, trong kinh doanh các thiết bị kỹ thuật số, xây dựng các điểm bán mới là khoản đầu tư tốn kém nhất của một công ty bán lẻ. Trong đó, bình quân, tiền thuê mặt bằng một trung tâm bán lẻ diện tích khoảng 200m2 lên đến 150-200 triệu đồng/tháng.
Theo tính toán tại TP.HCM, chi phí bán hằng tháng cho 4 - 5 cửa hàng lên đến cả tỷ đồng. Mỗi ngày, các cửa hàng này ngốn gần 30 triệu đồng chi phí mặt bằng, điện, chưa kể lương nhân viên cùng những chi phí khác. Tốn kém là thế nhưng cùng với TGDĐ, FPT Shop, các thương hiệu kinh doanh hàng kỹ thuật số khác là Viettel, Viễn Thông A, Nhật Cường... cũng đang ra sức mở rộng mạng lưới.
Hiện Viễn Thông A đã mở rộng mạng lưới lên 100 cửa hàng và trung tâm bảo hành, trong đó, hơn 20 cửa hàng tại hệ thống siêu thị Big C, Co.opmart và hơn 60 trung tâm smartphone ở nhiều tỉnh - thành. Viettel có cả trăm cửa hàng tập trung ở những tỉnh - thành lớn.
Theo các chuyên gia trong ngành, sự cạnh tranh của các thương hiệu chỉ khiến cho thị trường thêm sinh động chứ hiện nay chưa có đối thủ đủ sức "soán ngôi đầu" của TGĐĐ. Sự đầu tư lớn cộng với chiến lược kinh doanh bài bản đã giúp TGDĐ tăng trưởng vượt bậc về doanh thu, lợi nhuận.
Năm 2013, doanh thu bình quân của một cửa hàng TGDĐ là 3,4 tỷ đồng/tháng, tăng khoảng 25% so với năm 2012. Vào những tháng đầu năm 2014, tăng trưởng doanh thu bình quân của hệ thống cửa hàng này tăng 18% so với năm 2013. Đây là con số mà hầu hết các nhà kinh doanh cửa hàng thiết bị kỹ thuật số điều mơ ước.
Công bố của DN này còn cho thấy, doanh thu từ những cửa hàng mới hiện đang đóng góp 10-15% trong cơ cấu tổng doanh thu của TGDĐ trong 9 tháng qua.
"Chúng tôi vẫn đang vận hành tốt các siêu thị có diện tích trung bình, lớn và hiện doanh thu bình quân mỗi cửa hàng thegioididong.com là hơn 4 tỷ đồng/tháng, có cửa hàng đạt mức doanh số lên đến 10 tỷ đồng/tháng, như siêu thị trên đường Phan Đăng Lưu, TP.HCM", ông Tài tiết lộ.
Không chỉ doanh thu, lợi nhuận mà thời gian qua, giá trị tài sản ngắn hạn và dài hạn của nhà bán lẻ này cũng tăng lên nhanh chóng. Từ 25 triệu USD trong năm 2010 đã tăng lên 92 triệu USD vào năm 2013. Dự kiến, đến cuối năm 2014, giá trị tài sản ngắn hạn của TGDĐ sẽ tăng lên 135 triệu USD.
Ông Tài cho biết, kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm đã chứng minh năm nay sẽ là năm tăng trưởng gần gấp đôi năm ngoái về doanh thu và lợi nhuận. Cụ thể, Công ty sẽ đạt 13.000 tỷ đồng doanh thu và 435 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế.
Nếu xét trên số lượng điểm bán và doanh thu thì cả FPT Shop, Viettel và Viễn Thông A vẫn còn khoảng cách khá xa so với TGDĐ. Nếu FPT Shop đến cuối năm đạt 150 cửa hàng, Viễn Thông A có 130 cửa hàng thì hiện tại TGDĐ đã đạt con số 304 cửa hàng. Về doanh thu, TGDĐ dự kiến đạt 13.000 tỷ đồng trong khi FPT Shop dù cố gắng hết sức cũng chỉ có thể đạt được 4.000 tỷ đồng.
Thế Giới Di Động "phản đòn"
Sức ép cạnh tranh khiến thương hiệu đứng đầu thị trường phải gia tăng uy thế bằng những chiến lược có một không hai.
Dù đứng đầu thị trường nhưng trước sự trỗi dậy của các đối thủ, đặc biệt là FPT Shop, để giữ thị phần, TGDĐ buộc phải tăng tốc đầu tư. Để có nguồn vốn mở rộng mạng lưới, tháng 7/2014, TGDĐ chính thức niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Việc này vừa giúp TGDĐ nhanh chóng tăng vốn điều lệ, vốn sở hữu để phát triển mạng lưới. Đầu năm 2014, vốn điều lệ của TGDĐ chỉ nằm ở mức chưa đầy 110 tỷ đồng nhưng đến cuối quý 2/2014 đã lên đến 627 tỷ đồng. Và ngay sau khi lên sàn, tốc độ mở điểm bán mới của TGDĐ đã tăng đáng kể, từ 230 cửa hàng vào cuối tháng 5 đã lên 304 cửa hàng vào cuối tháng 10.
Riêng trong tháng 10, DN này đã mở thêm 28 cửa hàng thegioididong.com, nâng số siêu thị mới trong năm 2014 lên 90 điểm. Với tốc độ mở rộng như hiện tại, đến cuối năm 2015, chuỗi siêu thị thegioididong.com sẽ đạt khoảng 400 - 500 là hoàn toàn khả thi.
Không dừng lại ở việc mở rộng mạng lưới phân phối, TGDĐ cũng đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ vì "khách hàng là trung tâm mọi hành động của TGDĐ".
Trung tâm này được TGDĐ triển khai bằng việc thành lập hệ thống call center để gọi điện hỏi thăm mức độ hài lòng của khách hàng khi được phục vụ tại siêu thị, cho khách hàng dùng thử và trải nghiệm sản phẩm trong thời gian dài hơn, cho dùng thử phụ kiện trong 30 ngày, đổi pin miễn phí...
Ông Nguyễn Đức Tài, Tổng giám đốc Công ty CP Thế Giới Di Động, cho biết: "Chúng tôi mở thêm siêu thị nhằm mục tiêu phục vụ khách hàng tốt hơn và thuận tiện hơn. Việc đặt khách hàng làm trọng tâm đòi hỏi chúng tôi phải làm nhiều hơn nữa, từ việc tính toán mật độ siêu thị hợp lý, đưa ra các chính sách bán hàng, thiết kế các chương trình ưu đãi phù hợp tới việc lựa chọn hàng hóa chất lượng cao để phục vụ người tiêu dùng".
Song song đó, từ đầu năm đến nay, TGDĐ đã tăng số lượng nhân viên lên gần 1.000 người (từ 5.486 người lên 6.450 người). Việc mở rộng hệ thống kinh doanh cũng như nguồn lực sẽ phát sinh bài toán quản lý nhưng ông Tài tự tin vì "mọi thứ đều được hệ thống hóa bằng công nghệ”.
Theo nghiên cứu của GfK, hiện TGDĐ đang đứng đầu thị trường về số lượng điểm bán và thị phần. Điều đáng nói là TGDĐ cũng là chuỗi bán lẻ sản phẩm kỹ thuật số có nhiều mô hình cửa hàng khác nhau như: siêu thị lớn (trên 200m2), siêu thị trung (50 - 200m2) và cửa hàng nhỏ (30 - 50m2).
Trong kế hoạch công bố vào đầu năm nay, TGDĐ đã tiến về thị trường nông thôn với mục tiêu đạt 1.000 cửa hàng nhỏ trong thời gian tới. Hiện đã có 10 cửa hàng nhỏ được triển khai tại các tỉnh (nhiều nhất là tại Long An) nhưng ông Tài cho rằng mô hình này vẫn còn trong giai đoạn thử nghiệm và nếu thành công về doanh thu, lợi nhuận, TGDĐ sẽ đẩy nhanh việc triển khai mô hình này.
Không chỉ mạnh dạn đầu tư, theo các chuyên gia, TGDĐ cũng rất nhanh nhạy trong việc nắm bắt xu thế kinh doanh. Trong xu hướng phát triển của internet, cùng với việc nghiên cứu kỹ tập quán mua hàng của người tiêu dùng, TGDĐ đã xây dựng một phương thức kinh doanh chưa từng có ở Việt Nam trước đây.
Đó là Công ty đã xây dựng được một phong cách bán hàng đặc biệt nhờ vào đội ngũ 6.000 nhân viên chuyên nghiệp và website www.thegioididong.com. Hiện www.thegioididong.com đã trở thành website có lượt truy cập lớn nhất Việt Nam, đạt 1,2 triệu lượt/ngày, cung cấp thông tin chi tiết về giá cả, tính năng kỹ thuật của hơn 500 model điện thoại và 200 model laptop.
Ông Tài cho rằng, thị trường ĐTDĐ vẫn đang rất màu mỡ. Hiện cả nước có 90 triệu dân, trong đó, khoảng 60 triệu người trong độ tuổi dùng di động. Mỗi năm có khoảng 30 triệu điện thoại được đổi (khoảng 18 triệu điện thoại mới và 12 triệu điện thoại cũ).
Số lượng điện thoại mới này được mua tại 15.000 cửa hàng nhỏ (chiếm 50%), trong 50% còn lại thì TGDĐ chiếm 25% và 25% chia cho các thương hiệu khác. Ông Tài kỳ vọng với sự cố gắng của lãnh đạo và nhân viên Công ty cùng chiến lược táo bạo, thị phần của TGDĐ trong 2 -3 năm tới sẽ lên 45%.
HỒNG

Khám phá tin vui về xi măng sẽ sớm "cán đích"

Ông Trương Quốc Huy - Giám đốc Vicem Hoàng Mai cho biết, nhu cầu thị trường gia tăng là nhân tố quan trọng, đẩy doanh thu bán hàng, sản lượng tiêu thụ của HOM. Dựa vào sản lượng tiêu thụ 9 tháng qua, HOM dự kiến cả năm sẽ tiêu thụ 1,7 triệu tấn xi măng và 81.000 tấn clinker, tăng hơn nhiều so với mức thực hiện năm 2013 là 1.240 triệu tấn xi măng và 420.000 tấn clinker.
Cả doanh thu lẫn lợi nhuận của các doanh nghiệp (DN) xi măng được cải thiện mạnh trong quý III/2014 đang mở ra triển vọng cán đích các chỉ tiêu đề ra từ đầu năm của ngành hàng này.
Công ty CP Xi măng Bút Sơn (mã CK: BTS) công bố báo cáo tài chính quý III/2014 với doanh thu đạt hơn 739 tỷ đồng, tăng gần 13% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng đầu năm, doanh thu của Xi măng Bút Sơn đạt 2.199 tỷ đồng, hoàn thành 69% kế hoạch năm. Về lợi nhuận, Xi măng Bút Sơn đạt 33,3 tỷ đồng, cao hơn nhiều so với con số âm 48,1 tỷ đồng của cùng kỳ năm 2013.

Theo bà Lê Thị Khanh, đại diện công bố thông tin của Xi măng Bút Sơn, sản lượng lẫn giá bán sản phẩm clinker, vật liệu xây dựng khác đều tăng, khiến doanh thu lẫn lợi nhuận của Công ty đều được cải thiện.
Cụ thể, doanh thu bán hàng xi măng, clinker tăng 117,5 tỷ đồng, trong đó, nhờ giá bán bình quân clinker, xi măng tăng đã thêm 101 tỷ đồng, sản lượng tiêu thụ tăng tương đương với 16,5 tỷ đồng… 9 tháng qua, BTS có thêm 18,7 tỷ đồng lợi nhuận nhờ vào chi phí tài chính giảm.
Một DN khác đóng tại miền Trung là Công ty CP Xi măng Vicem Hoàng Mai (mã CK: HOM) cũng dự đoán về khả năng hoàn thành kế hoạch tiêu thụ, doanh thu và lợi nhuận trong năm 2014.
Cụ thể, với doanh thu 1.350 tỷ đồng đạt được trong 9 tháng qua, tăng hơn 200 tỷ đồng so với cùng kỳ năm ngoái; lợi nhuận trước thuế 31,7 tỷ đồng (cùng kỳ năm 2013 chỉ hơn 3 tỷ đồng), HOM dự báo, năm 2014, Công ty sẽ đạt doanh thu thuần 1.700 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 45 tỷ đồng, gấp hơn 6 lần so với năm 2013 (7,4 tỷ đồng).
Ông Trương Quốc Huy - Giám đốc Vicem Hoàng Mai cho biết, nhu cầu thị trường gia tăng là nhân tố quan trọng, đẩy doanh thu bán hàng, sản lượng tiêu thụ của HOM. Dựa vào sản lượng tiêu thụ 9 tháng qua, HOM dự kiến cả năm sẽ tiêu thụ 1,7 triệu tấn xi măng và 81.000 tấn clinker, tăng hơn nhiều so với mức thực hiện năm 2013 là 1.240 triệu tấn xi măng và 420.000 tấn clinker.
Sau một thời gian cổ phiếu bị đưa vào diện cảnh báo do kết quả kinh doanh âm liên tục trong quý 4/2013 và quý 1/2014, kể từ tháng 8/2014, cổ phiếu của Công ty CP Xi măng Vicem Hải Vân (mã CK: HVX) cũng đã thoát cảnh báo và Công ty công bố kết quả kinh doanh khả quan trong 9 tháng đầu năm.
Cụ thể, doanh thu bán hàng 9 tháng năm 2014 chạm mốc 810 tỷ đồng, cao hơn nhiều so với 633 tỷ đồng của cùng kỳ 2013; lợi nhuận sau thuế đạt hơn 7 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm ngoái chỉ là gần 270 triệu đồng.
Dự báo, năm 2014, Vicem Hoàng Mai sẽ đạt doanh thu thuần 1.700 tỷ đồng với lợi nhuận trước thuế đạt 45 tỷ đồng. Cần phải nói thêm rằng, năm 2013, HOM chỉ về đích với 7,4 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế.
Theo Công ty Chứng khoán VCBS, hầu hết các DN trong ngành xi măng đều đang trong giai đoạn trả nợ đầu tư lớn. Tuy nhiên, so với trước, thì áp lực nợ đang giảm dần, và đó là một lý giải cho việc lợi nhuận của các DN được cải thiện hơn so với cùng kỳ.
Đại diện Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) cho hay, tiêu thụ xi măng tăng đều suốt từ tháng 5 đến nay, với sản lượng 5 - 6 triệu tấn/tháng đã tạo điều kiện thuận lợi để các DN sản xuất xi măng đẩy mạnh tiêu thụ, gần như không có hàng tồn kho.
Tính đến ngày 15/11/2014, sản lượng xi măng tiêu thụ, bao gồm cả nội địa lẫn xuất khẩu đạt gần 58 triệu tấn, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2013.
Bộ Xây dựng dự báo, năm 2014, ngành xi măng sẽ tiêu thụ khoảng 66-67 triệu tấn. Như vậy, kết quả này sẽ khá hơn nhiều so với dự báo (chỉ tăng 2 - 3%, với 62,63 triệu tấn).

Chia sẻ với bạn sản phẩm giấy công nghiệp: Tự tìm cơ hội

Trong tương lai, theo Công ty Chứng khoán Bảo Việt (BVSC), với quy mô dân số đông, với tiềm năng tăng trưởng mạnh của ngành tiêu dùng cùng xuất khẩu thủy sản, may mặc dự kiến sẽ còn đẩy mạnh nhờ Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), cơ hội thúc đẩy của ngành bao bì giấy nói chung và sản xuất giấy công nghiệp nói riêng càng lớn.
Cầu vượt cung
Những năm qua, ngành giấy Việt Nam đã ghi nhận tốc độ tăng trưởng khá cao. Giai đoạn 2007 - 2012, tiêu thụ giấy các loại tăng trưởng trên 10%. Đến năm 2013, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, mức tăng tiêu thụ này bị sụt giảm, còn 3%.
Dù vậy, theo thống kê của Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam (VPPA), trong 5 năm qua, năng lực sản xuất của ngành giấy liên tục tăng, với tốc độ tăng trưởng 15 - 17%/năm. Tăng trưởng là vậy nhưng nguồn cung trong nước vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Năm 2013, khả năng cung ứng giấy các loại từ trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 73%, còn lại phải nhập khẩu.
Trong cơ cấu tiêu thụ giấy gồm giấy in báo, giấy viết, giấy bao bì, giấy tissue và giấy vàng mã, giấy bao bì chiếm tỷ trọng lớn nhất. Năm 2013, tiêu thụ giấy bao bì chiếm hơn 2 triệu tấn trong tổng tiêu thụ giấy khoảng 3 triệu tấn. Giấy bao bì được chia ra làm 2 loại: giấy công nghiệp và bao bì carton.
Nếu như lĩnh vực bao bì carton có đến hơn 200 nhà cung cấp, thì số lượng đơn vị tham gia vào sản xuất giấy công nghiệp lại khá ít, do đầu tư lớn và phải đảm bảo vệ sinh môi trường. Trên toàn thị trường, chỉ một vài đơn vị như Công ty Vina Kraft-Bình Dương, xưởng giấy Chánh Dương-Bình Dương, Giấy Sài Gòn - Bà Rịa là có năng lực sản xuất giấy công nghiệp trên 100.000 tấn/năm.
Những đơn vị khác như Đông Hải Bến Tre (DHC) năng lực sản xuất thấp hơn. Dù vậy, với năng lực sản xuất 60.000 tấn/năm, DHC vẫn được xem là nhà cung ứng giấy công nghiệp lớn thứ tư ở miền Nam. Vì thế, hằng năm, Việt Nam vẫn phải nhập thêm giấy công nghiệp, ước tính khoảng 40% nhu cầu.
Trong tương lai, theo Công ty Chứng khoán Bảo Việt (BVSC), với quy mô dân số đông, với tiềm năng tăng trưởng mạnh của ngành tiêu dùng cùng xuất khẩu thủy sản, may mặc dự kiến sẽ còn đẩy mạnh nhờ Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), cơ hội thúc đẩy của ngành bao bì giấy nói chung và sản xuất giấy công nghiệp nói riêng càng lớn.
Trên thực tế, ngay thời điểm này, các doanh nghiệp hoạt động trong ngành giấy công nghiệp đã có bước tăng trưởng ấn tượng. Mặc dù Vina Kraft không công bố con số cụ thể, nhưng theo Siam Cement Group Việt Nam (SCG Việt Nam) - công ty mẹ của Vina Kraft, doanh thu 9 tháng năm 2014 của SCG Việt Nam tăng 28% so với cùng kỳ, đạt 9.790 tỷ đồng nhờ đáng kể vào mức tăng trưởng ở Vina Kraft.
Hay DHC, dù chỉ là doanh nghiệp giữ khoảng 5% thị phần giấy công nghiệp, nhưng nhờ cung ứng giấy công nghiệp cho các nhà máy sản xuất bao bì lớn như Box-Pak Việt Nam, Bia Sài Gòn, Nam An, Cát Phú, Vĩnh Xuân... và bán hàng chủ yếu ở khu vực miền Tây Nam Bộ nên kinh doanh rất khả quan.
Dự kiến cả năm 2014, doanh thu của DHC sẽ tăng 21%, trong đó doanh thu từ giấy công nghiệp ước tăng 28%. Mới đây, ban lãnh đạo ở DHC đã quyết định tăng 10% kế hoạch doanh thu và 35% kế hoạch lợi nhuận so với chỉ tiêu ban đầu đề ra.
Tìm chỗ đứng
Dù tăng trưởng cao nhưng tiêu thụ giấy bình quân đầu người của Việt Nam vẫn thấp, đạt 33kg vào năm 2013, trong khi con số này ở Nhật Bản, châu Âu là 130kg, ở các quốc gia châu Á là 40kg.
Riêng với giấy công nghiệp, do thiếu hụt nguồn cung nên đầu ra của các đơn vị sản xuất loại giấy này thường thuận lợi. Điều đó đã và đang thúc đẩy các công ty đầu tư thêm vào ngành này. Theo thống kê sơ bộ, có 3 dự án nhà máy giấy cho công suất khổng lồ đang được triển khai.
Cụ thể, dự án nhà máy giấy công suất 600.000 tấn/năm của Lee&Man Paper đang khởi động lại ở Hậu Giang với tổng vốn đầu tư 1,2 tỷ USD, dự kiến năm 2015 sẽ đi vào hoạt động. Nine Dragon, nhà sản xuất bao bì lớn nhất thế giới, cũng đang rót vốn vào dự án sản xuất giấy bao bì công suất 350.000 tấn/năm tại Bình Dương.
Cũng tại Bình Dương, liên doanh Vina Kraft rót 180 triệu USD để đầu tư nhà máy giấy công suất 225.000 tấn/năm. Như vậy, chỉ tính riêng 3 dự án FDI kể trên, năng lực sản xuất giấy sẽ tăng lên đến gần 1,2 triệu tấn/năm, chiếm 40% tổng nhu cầu giấy của cả năm 2013.
Nếu cả 3 dự án này đều cùng đi vào hoạt động như kế hoạch, nguồn cung ứng giấy cho thị trường từ năm 2016 sẽ tăng mạnh, gia tăng áp lực cạnh tranh và rủi ro kinh doanh lên các đơn vị có năng lực sản xuất thấp hơn. Chính vì thế, không riêng doanh nghiệp FDI mà các đơn vị trong nước cũng ra sức mở rộng sản xuất, như một cách tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Điển hình là dự án nâng công suất lên thêm 28.000 tấn/năm của Giấy Sài Gòn trong năm 2014. Hay từ năm 2015, DHC dự kiến sẽ đầu tư xây dựng nhà máy Giao Long giai đoạn 2 với công suất thiết kế gấp đôi hiện tại. Một khi nhà máy đi vào hoạt động (năm 2017), tổng công suất sản xuất giấy của DHC có thể đạt 180.000 tấn/năm.
Xa hơn, giới phân tích nhận định, chỉ có đạt quy mô sản xuất lớn và kiểm soát chi phí tốt, các nhà sản xuất giấy mới có thể tạo được lợi thế vượt trội trong bối cạnh cạnh tranh sẽ càng gay gắt khi Cộng đồng kinh tế ASEAN dự kiến ra đời từ năm 2015.
Khi đó, thuế nhập khẩu đối với giấy công nghiệp sẽ giảm từ 5% như hiện nay xuống còn 0%. Đây cũng là lý do để các doanh nghiệp giấy ráo riết chạy đua mở rộng hoạt động, tính lại chi phí nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.

Câu chuyện thú vị có thật của Citimart - Aeon:"bước trên vai người khổng lồ"

Sau đó, Aeon sẽ liên kết với các doanh nghiệp thực phẩm và hàng tiêu dùng Việt Nam sản xuất theo đơn đặt hàng riêng. Thông qua liên kết này, Aeon sẽ tiêu thụ được hàng hóa đồng thời xây dựng được hệ thống cung ứng sản phẩm, hệ thống lưu thông nhằm chuẩn bị cho kế hoạch xây dựng hàng loạt siêu thị mà cụ thể là đến năm 2020 sẽ có 20 Aeon Mall tại Việt Nam.
Citimart không bán
Bắt đầu từ ngày 15/11, hệ thống siêu thị Citimart sẽ thay đổi theo phong cách của thương hiệu bán lẻ Nhật Bản Aeon. Cùng với đó, thương hiệu của siêu thị này đổi tên thành Aeon-Citimart. Điều này dễ khiến dư luận đặt vấn đề "Citimart rơi vào tay đối thủ Nhật Bản".
Thế nhưng, theo ông Lâm Minh Huy, Chủ tịch Công ty Đông Hưng (sở hữu thương hiệu Citimart) thì "hai bên hợp tác toàn diện qua một hợp đồng li-xăng về kỹ thuật. Hợp đồng này cho phép Citimart tiếp cận, kinh nghiệm cũng như công nghệ quản lý của Aeon.
Ngoài ra, Citimart cũng được sử dụng thương hiệu Aeon song hành cùng logo của mình". Cả hai phía (Citimart và Aeon) đều không tiết lộ giá trị của hợp đồng này nhưng theo những người trong giới đây là con số không nhỏ.
Sau khi chuyển đổi thương hiệu, ngoài những mặt hàng vốn đã bán trước đây thì Aeon-Citimart sẽ là nơi bán các loại thực phẩm và hàng tiêu dùng độc quyền của Aeon với thương hiệu Topvalu được chuyển từ hệ thống siêu thị của Aeon tại Thái Lan và Malaysia sang.
Sau đó, Aeon sẽ liên kết với các doanh nghiệp thực phẩm và hàng tiêu dùng Việt Nam sản xuất theo đơn đặt hàng riêng. Thông qua liên kết này, Aeon sẽ tiêu thụ được hàng hóa đồng thời xây dựng được hệ thống cung ứng sản phẩm, hệ thống lưu thông nhằm chuẩn bị cho kế hoạch xây dựng hàng loạt siêu thị mà cụ thể là đến năm 2020 sẽ có 20 Aeon Mall tại Việt Nam.
Ngay khi hai bên ký kết hợp tác, nhân sự cấp quản lý của Citimart đã được tham gia khóa huấn luyện tại Nhật do phía Aeon tổ chức. Và hiện tại, 4 nhân sự quản lý phía đối tác Nhật đã bắt đầu làm việc tại Citimart để chuyển giao kỹ thuật, công nghệ trong điều hành và quản lý siêu thị.
Citimart là thương hiệu siêu thị đầu tiên mở đầu cho cách kinh doanh bán lẻ hiện đại tại Việt Nam. Đến nay, Citimart có gần 30 siêu thị tại 6 tỉnh - thành phố. Chia sẻ lý do chọn Aeon để hợp tác, ông Lâm Minh Huy, cho biết: "Tiến trình toàn cầu hóa giúp chúng tôi nhận ra rằng, chìa khoá thành công chính là tối ưu hóa hoạt động quản trị nội bộ và hiệu quả hóa bộ máy vận hành. Mục tiêu của chúng tôi là xây dựng một hệ thống chuẩn mực cao hơn, chuyên nghiệp hơn để đáp ứng được nhu cầu và đòi hỏi của thị trường. Để vươn xa hơn, Citimart tìm kiếm sự hợp tác và hỗ trợ từ các tập đoàn bán lẻ trên thế giới với kinh nghiệm và năng lực đã được khẳng định; và Aeon là các tên mà Citimart nghĩ đến đầu tiên".
Trong khi đó, ông Nagahisa Oyama, Tổng giám đốc Tập đoàn Aeon Khu vực Châu Á, cho rằng, với sự hợp tác này, Aeon-Citimart sẽ cung cấp sản phẩm và dịch vụ với giá cả phải chăng và chất lượng cao cho khách hàng thông qua phối hợp với mạng lưới tìm nguồn cung ứng toàn cầu của Aeon và mạng lưới bán lẻ của Citimart. Hai bên cùng hợp tác để tăng hiệu quả công nghệ quản lý chuỗi cung ứng, thiết lập liên minh siêu thị, đặc biệt là tại TP.HCM.
Đây là một dự án nằm trong chiến lược "phủ châu Á" của tập đoàn có tổng doanh thu đạt 60.000 tỷ yên/năm và mức lợi nhuận đạt trên 200 tỷ yên/năm. Hiện Aeon đã có mặt tại 14 quốc gia châu Á trong các lĩnh vực bán lẻ, phát triển và vận hành trung tâm mua sắm, dịch vụ tài chính. Trong tương lai, nhà đầu tư này còn tập trung vào mảng trung tâm mua sắm, kết hợp loại hình siêu thị và cửa hàng tiện ích.
Tầm nhìn đối tác
Theo các chuyên gia bán lẻ, việc chọn Aeon làm đối tác của Ctimart cũng không lấy gì làm lạ. Bởi nói như ông Lâm Minh Huy thì "qua quá trình tiếp xúc, Citimart đã hoàn toàn bị thuyết phục bởi sự chuyên nghiệp, năng lực vận hành của Aeon cũng như tầm nhìn và quan điểm đối với thị trường bán lẻ Việt Nam".
Việc sử dụng thương hiệu Aeon song hành cùng Citimart sẽ càng làm tăng thêm sự nhận diện và sức mạnh thương hiệu của cả hai bên khi Aeon đã là tên tuổi có uy tín trên thế giới, còn Citimart có truyền thống tại thị trường Việt Nam.
Chưa biết kết quả trong thời gian tới như thế nào nhưng theo đại diện của Citimart thì chỉ "trong giai đoạn phát tờ rơi giới thiệu về sự hợp tác này, doanh số tại Citimart đã tăng thấy rõ”.
Ông Huy tin rằng, với sự hợp tác cùng Aeon, Citimart đã tìm được một người bạn đường tin cậy và phù hợp để đi tiếp con đường đã lựa chọn, đưa Citimart trở thành hệ thống siêu thị chuyên nghiệp và lớn nhất Việt Nam. Kế hoạch mà thương hiệu Aeon-Citimart đặt ra là "sẽ đạt 500 siêu thị đến năm 2025".
Thật ra, việc liên doanh, liên kết để tăng sức mạnh thương hiệu trong điều kiện Việt Nam mở cửa hoàn toàn thị trường và các nhà đầu tư nước ngoài đang ồ ạt tràn vào là điều mà các doanh nghiệp trong nước phải làm. Vấn đề là hợp tác trong lĩnh vực nào và đến đâu.
Ông Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ tịch HĐQT Saigon Co.op, cho rằng: "Phải biết chọn bạn mà chơi. Một yêu cầu quan trọng trong liên doanh, liên kết là lựa chọn đối tác. Đi với người khổng lồ cũng có cái hay nhưng phải cẩn trọng và lường trước các tình huống có thể xảy ra". Năm 2013, Saigon Co.op đã liên doanh với nhà bán lẻ hàng đầu Singapore là Tập đoàn NTUC FairPrice.
Với triết lý của hợp tác xã, giữa Saigon Co.op và FairPrice đã có "tiếng nói chung" nên hoạt động của Co.opXtra (đại siêu thị do liên doanh Co.op và FairPrice triển khai) đã khá thành công. Và từ hợp tác này, đã có 400 mặt hàng nông sản, thủy sản Việt Nam được đưa vào tiêu thụ tại hệ thống 270 đại siêu thị, siêu thị, cửa hàng tiện lợi của FairPrice ở Singapore.
Nhưng trên thực tế, cũng có những liên doanh, liên kết bị tan rã vì "không tìm được hướng đi chung". Chẳng hạn, thương hiệu cửa hàng tiện lợi Family Mart của Công ty Phú Thái và Family Mart Nhật Bản. Thành lập vào tháng 6/2011, sau 2 năm hợp tác, Phú Thái và Family Mart "chia tay".
Sau khi chia tay Family Mart, Phú Thái tiếp tục hợp tác với thương hiệu BJC của Thái Lan và đổi tên chuỗi cửa hàng tiện lợi thành Bmart. Trong khi đó, phía đối tác Nhật Bản lại tiếp tục phát triển thương hiệu Family Mart tại Việt Nam.
Hay như trường hợp G7 Mart của Công ty tập đoàn Cà phê Trung Nguyên, sau thời gian hoạt động không hiệu quả, G7 Mart liên doanh với thương hiệu Ministop (công ty con của Tập đoàn Aeon) ra mắt thương hiệu G7 Ministop.
Trong giai đoạn 1, tổng vốn đầu tư của dự án này là 10 triệu USD, trong đó, Trung Nguyên chiếm 75% và 25% thuộc về Ministop. Hiện tại, chưa biết hợp tác của hai bên như thế nào mà các cửa hàng này chỉ còn bảng hiệu "Ministop".

Thực trạng vấn đề “Siết” ngành bia - Lợi bất cập hại

Điều đáng tiếc, trước nay, Bộ Công Thương là một cơ quan quản lí ban hành các chính sách khuyến khích và rất phù hợp cho phát triển thị trường, khác hẳn với những Bộ “nóng” như Y tế, Giáo dục... vẫn luôn có những chính sách chưa kịp ban ra đã “chết yểu” vì bị người dân “phản đối”; trong khi, các quy định mà Dự thảo dự kiến đặt ra lại có mục tiêu và cái lợi nghiêng về các lĩnh vực thuộc các Bộ “nóng” này quản lí. Cũng do đó nên có chuyên gia nói vui rằng, có lẽ Dự thảo Nghị định bị phản đối, một phần là do Bộ Công thương… lấn “sân” và chưa… nghiên cứu đủ!
Bộ chưa... nghiên cứu đủ?
Trong dự thảo, còn có rất nhiều quy định khác có thể lấy làm ví dụ cho sự bất cập, ít tính thực tiễn và vô cùng khó hiểu.
Chẳng hạn, quy định cấm bán bia cho người dưới 18 tuổi khiến bà Trịnh Thị Hằng Nga, Vụ trưởng Vụ Pháp chế - Bộ GTVT phải cho rằng, Bộ Công Thương cần có nghiên cứu, xem xét tính khả thi, không phải những gì không quản được thì sẽ cấm, vì “không được bán bia cho người dưới 18 tuổi, vậy phải chăng người đi mua bia phải mang chứng minh thư đi theo?”.
“Tôi nghĩ là với những trường hợp cấm đó thì mình quản lý giám sát thế nào chứ không phải cứ không quản được thì cấm. Đã cấm thì cần phải có giám sát, xử lý. Nếu quy định một loạt như thế thì khá nhiều trường hợp là cơ quan quản lý không kiểm soát và xử lý được”, bà Nga nói.
Nếu uống bia chất lượng tốt và không lạm dụng thì cả người tiêu dùng và xã hội đều được lợi.
Hay như với nội dung cấm bán bia trên các phương tiện điện tử, quy định này cũng khiến dư luận “sôi sùng sục” chẳng thua gì thái độ phản đối trước quy định cấm ban bia vỉa hè. Không phải không có lí khi một chuyên gia đặt câu hỏi rằng phải chăng các nhà quản lí đang đặt mục tiêu… siêt cả lĩnh vực kinh doanh thương mại điện tử, vốn chỉ mới manh nha ở Việt Nam và còn “chưa đâu vào đâu”?
Chưa kể cũng chưa cơ quan quản lí dự định sẽ quản lí ra sao với các đơn vị sản xuất và nhập khẩu, phân phối bia, thậm chí cả rượu, khi bản thân họ có đầy đủ chức năng, điều kiện khi đăng kí thủ tục kinh doanh và được cấp phép xây dựng/bán hàng qua website, qua “mạng”.
Có thể thấy là với phần lớn những chi tiết quy định đặt ra các giải pháp “cấm” nhằm siết bia rượu, như mục tiêu đề ra là hạn chế lạm dụng đồ uống có cồn, dường như các nhà các soạn thảo dự thảo Nghị định chưa có nghiên cứu, khảo sát thực tiễn cũng như tính toán đầy đủ, trọn vẹn những phản ứng của thị trường.
Điều đáng tiếc, trước nay, Bộ Công Thương là một cơ quan quản lí ban hành các chính sách khuyến khích và rất phù hợp cho phát triển thị trường, khác hẳn với những Bộ “nóng” như Y tế, Giáo dục... vẫn luôn có những chính sách chưa kịp ban ra đã “chết yểu” vì bị người dân “phản đối”; trong khi, các quy định mà Dự thảo dự kiến đặt ra lại có mục tiêu và cái lợi nghiêng về các lĩnh vực thuộc các Bộ “nóng” này quản lí. Cũng do đó nên có chuyên gia nói vui rằng, có lẽ Dự thảo Nghị định bị phản đối, một phần là do Bộ Công thương… lấn “sân” và chưa… nghiên cứu đủ!
Ngành bia và nền kinh tế đều ảnh hưởng
Nếu đưa ngành bia vào khuôn khổ ngành kinh doanh có điều kiện với những quy định cấm đoán ngặt nghèo mà vốn dĩ đã được các cơ quan liên bộ khác cũng quản lí khá chặt với ngành bia từ trước đến nay, chịu ảnh hưởng trực tiếp trước hết sẽ chính là DN ngành bia và người tiêu dùng.
Trong báo cáo nghiên cứu về vai trò, vị trí của ngành bia trong phát triển kinh tế -xã hội, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách công nghiệp (IPSI) cùng với Cty Nghiên cứu Chính sách Regioplan (RP) và Ernst & Young (EY) đã ghi nhận sự sụt giảm trong hoạt động của ngành bia, bắt đầu từ năm 2014.
Theo đó, quý I/2014, lượng tiêu thụ bia đã giảm 7,5% so với cùng kì, sản lượng bia cũng giảm 8,2% . RP-EY nhận định sự sụt giảm này là do yếu tố tăng suất tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), có hiệu lực từ tháng 1 năm 2013, phản ánh lên giá bán và vì thế người tiêu dùng đã bớt uống bia hơn so với trước đó.
Điều đáng nói là sự sụt giảm này đã tác động không nhỏ lên nền kinh tế. Theo tính toán của của Regioplan (2014) dựa trên dữ liệu bảng khảo sát có được từ các Cty bia, tổng giá trị giá tăng đã -1%; các chỉ số khác liên quan đến sản lượng và tiêu thụ bia như lao động phát sinh -10%, tổng số lao động -5%, nguồn thu thuế GTGT từ dịch vụ -10%, nguồn thu thuế GTGT từ bán lẻ -3%, dẫn đến tổng các nguồn thu ngân sách Nhà nước -6%.
Báo cáo này cũng dự báo rằng trong trường hợp thị trường bia phục hồi khi chỉ số giá tiêu dùng phục hồi, thì ngành bia vẫn bị đe dọa bởi các mặt hàng nhập khẩu rẻ hơn, bia nội theo đó sẽ sản xuất ít hơn, từ đó đem lại ảnh hưởng tiêu cực đối với các nhà phân phối hàng và dịch vụ trung gian của Việt Nam.
Ngoài ra, nếu tăng thuế TTĐB đối với mặt hàng bia, sức mua sẽ lại giảm sút và quyết định này có thể khiến VN “dẫm lại vết chân” của châu Âu khi tăng thuế TTĐB đối với bia rồi mới nhận ra nguồn thu thuế TTĐB tăng ít hơn so với phần trăm tăng trưởng của thuế TTĐB và có thể làm nguồn thu ngân sách giảm xuống.
Liên quan đến “tác hại của bia”, dẫn các tài liệu nghiên cứu khoa học, các tác giả báo cáo cho rằng bia là thức uống lên men độ cồn thấp làm bằng nguyên liệu tự nhiên, hấp dẫn con người từ xa xưa với vị đắng dịu và hương thơm đặc trưng của hoa hublông, kèm theo những giá trị dinh dưỡng cao, có thể khẳng định bia có lợi cho sức khỏe.
Nếu uống bia chất lượng tốt và không lạm dụng thì cả người tiêu dùng và xã hội đều được lợi. Từ đó, có thể thấy việc hướng tới “siết ngành bia” vào ngành, nghề kinh doanh có điều kiện là điều rất cần được nghiên cứu đầy đủ, với các giải pháp quản lí, hợp tình hợp lí hơn.

Thú vị với sự kiện: Big C kích hoạt "cuộc chiến" giá rẻ

Theo các chuyên gia thị trường, động thái của Big C sẽ châm ngòi cho một "cuộc chiến" giá rẻ mới trong thời gian tới. Trên thực tế, dù không công khai nhưng vài năm qua, các siêu thị đều xác định là thương hiệu có giá tốt trên thị trường. Nếu như Big C xác định "Giá rẻ cho mọi nhà”, thì Co.opmart đưa ra chính xách "Bạn của mọi nhà”... cùng những "cơn mưa khuyến mãi".
Ngày 14/11, hệ thống siêu thị Big C bắt đầu áp dụng chương trình "Cam kết giá” cho các mặt hàng tiêu dùng nhanh và không có thời gian kết thúc. Cụ thể, Big C công bố mức giá sản phẩm tiêu dùng nhanh của mình là thấp nhất so với giá bán tại các siêu thị khác nằm trong phạm vi bán kính 7km.
Big C cam kết sẽ tặng sản phẩm nếu khách hàng tìm thấy sản phẩm tương đương tại các siêu thị khác có mức giá rẻ hơn so với giá bán tại siêu thị Big C. Theo chương trình mà Big C đưa ra thì có khoảng 8.000 - 10.000 sản phẩm hằng ngày nằm trong diện cam kết giá, chiếm khoảng 80% về số lượng và gần 70% về giá trị trong nhóm mặt hàng tiêu dùng nhanh.
Chưa biết, tất cả những mặt hàng tiêu dùng nhanh mà Big C công bố có thấp nhất trong kênh bán hàng siêu thị hay không nhưng trên thực tế, một số mặt hàng mà chúng tôi khảo sát trong ngày 16/11 thì Big C có giá bán thấp hơn.
Chẳng hạn, sữa Cô gái Hà Lan 180ml tại Big C Hoàng Văn Thụ có giá 26.500 lốc/4 hộp thì tại Co.opmart Lũy Bán Bích là 28.500 đ/lốc và tại Vinatexmart Bàu Cát là 27.000 đồng. Tương tự, dầu ăn Cooking Tường An 1 lít niêm yết tại Big C là 37.500 đ/bình, tại Co.opmart là 41.800đ, tại Vinatexmart là 40.600đ. Mì Hảo Hảo 75g tại Big C và Co.opmart đồng giá 3.400 đ/gói thì tại Vinatexmart là 3.600 đ/gói...
Để có giá tốt nhất, ông James Scott, Tổng giám đốc hệ thống siêu thị Big C, cho rằng, việc kiểm soát giá được đơn vị này thực hiện thường xuyên. Mỗi tuần, có hơn 2.000 mặt hàng tiêu dùng nhanh được theo dõi, kiểm soát giá kỹ càng, để đảm bảo người tiêu dùng được mua những mặt hàng tiêu dùng nhanh tại Big C với giá thấp nhất.
"Chương trình này chắc chắn sẽ tạo đột phá lớn trên thị trường bán lẻ vì Big C là đơn vị đầu tiên cho phép khách hàng kiểm chứng cam kết của mình và tự tin trong công tác kiểm soát giá cả. Việc này cũng đồng nghĩa với việc chúng tôi phải chủ động và nỗ lực nhiều hơn nữa để có giá tốt mỗi ngày và đảm bảo rằng khách hàng luôn có thêm nhiều trải nghiệm mua sắm thú vị khi đến với Big C", ông James Scott khẳng định.
Theo các chuyên gia thị trường, động thái của Big C sẽ châm ngòi cho một "cuộc chiến" giá rẻ mới trong thời gian tới. Trên thực tế, dù không công khai nhưng vài năm qua, các siêu thị đều xác định là thương hiệu có giá tốt trên thị trường. Nếu như Big C xác định "Giá rẻ cho mọi nhà”, thì Co.opmart đưa ra chính xách "Bạn của mọi nhà”... cùng những "cơn mưa khuyến mãi".
Nếu Big C triển khai khuyến mãi giảm giá hằng ngày, hằng tuần thì Co.opmart cũng xem đây là chiến lược cạnh tranh của mình và mỗi năm, đơn vị này thực hiện cả chục chương trình khuyến mãi với kinh phí hàng tỷ đồng. Mới đây nhất là chương trình "Tự hào hàng Việt" với kinh phí thực hiện lên đến 200 tỷ đồng với sự tham giá của 600 nhà cùng cấp.
Chương trình được triển khai tại 71 siêu thị Co.opmart, 82 cửa hàng C.op Food và Co.opXtra với hàng ngàn mặt hàng giảm giá đến 50%. Hiện tại, Co.opmart đang khuyến mãi giảm giá đến 50% cho 3.500 mặt hàng thiết yếu cùng nhiều quà tặng hấp dẫn.
Và không chỉ có Big C, Co.opmart mà cả những thương hiệu khác như Maximark, Vinatexmart, Satra Mart... cũng thường xuyên tổ chức khuyến mãi, giảm giá bán. Và tất cả những chương trình này được thực hiện với mục đích hướng đến ngôi vị "giá thấp nhất".
"Tuy nhiên, vấn đề là Big C có đủ mọi điều kiện để thực hiện việc này lâu dài hay không là một chuyện khác", ông Nguyễn Trung Thẳng, Chủ tịch Masso Group đánh giá. Phân tích kỹ hơn vấn đề này, ông Thẳng cho rằng, cách Big C áp dụng cũng giống như Wal-Mart đã thực hiện và đã thành công.
Với tiềm lực của một tập đoàn bán lẻ lớn, có thể Big C đáp ứng được điều kiện về tài chính nhưng muốn thành công còn đòi hỏi doanh nghiệp có hệ thống phân phối rộng khắp cả nước.
Wal-Mart với chính sách "mỗi ngày một sản phẩm giá tốt nhất thế giới" đã tạo ra những làn sóng săn hàng giá rẻ của người tiêu dùng. Wal-Mart làm được điều này nhờ quy mô lớn với sức mua lớn. Còn Big C thì phải chờ vì xét về quy mô, tại Việt Nam, Big C mới có 29 siêu thị.
Nói về vấn đến này, ông Phạm Việt Anh, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Ý tưởng Thương hiệu và Thiết kế Left Brain Connectors, cho rằng, chiến lược mà Big C áp dụng cho người tiêu dùng, sẽ kéo được khách đến với siêu thị nhưng sẽ... gây khổ cho nhà cung cấp.
Bài học thực tế từ Wal-Mart đã cho thấy, để có giá tốt nhất thị trường, Wal-Mart đã ép nhà cung cấp bằng giá rẻ, giảm phúc lợi nhân viên... và họ phải đối mặt với những vấn đề này khi định hình thương hiệu "Giá tốt nhất".

Giới thiệu với bạn chiến lược kinh doanh của người Thái

Một cách tiếp cận người tiêu dùng và thị trường phổ biến của người Thái là tổ chức các buổi hội chợ hay triển lãm. Cụ thể, hàng năm Cục Xúc tiến Thương mại, Bộ Thương mại Thái Lan - Văn phòng Thương vụ Thái tại TP.HCM đã tổ chức các Tuần lễ Thái Lan liên tục trong suốt 13 năm qua. Thậm chí, gần đây Cung Văn hóa Lao động cũng thường xuyên trở thành điểm bán hàng do các doanh nghiệp nhập khẩu hàng Thái tổ chức.
Không dừng lại với thị trường 60 triệu dân Thái, doanh nghiệp Thái Lan hiện đang muốn mở rộng sang thị trường Việt Nam để hiện thực hoá tham vọng của mình.

Hơn 3 tháng trước, Tập đoàn Berli Jucker (BJC) của tỉ phú Charoen Sirivadhanabhakdi, người giàu thứ 3 tại Thái Lan, đã mua lại hệ thống bán lẻ Metro Cash & Carry Việt Nam. Tuần qua, Wall Street Journal lại đưa tin, ThaiBev, một công ty khác của vị tỉ phú này, đang muốn trở thành cổ đông chiến lược của Tổng Công ty Bia rượu nước Giải khát Sài Gòn (Sabeco).
Trước thương vụ thâu tóm Metro Việt Nam, Tập đoàn BJC của ông chủ này đã nhảy vào mua lại cổ phần của đối tác Nhật trong liên doanh Family Mart tại Việt Nam và sau đó đổi tên thành B’mart.
Tương tự, trong khoảng thời gian trên, F&N Dairy Investment, một công ty thực phẩm có trụ sở tại Singapore do Thai Beverage (một công ty khác cũng thuộc quyền kiểm soát của ông Charoen) chi phối, cũng đã mua lại hơn 10% cổ phần của Công ty Cổ phần Sữa Vinamilk. Không xuất hiện trước truyền thông, nhưng với những vụ đầu tư liên tục, dường như vị tỉ phú này đang muốn chuyển trọng tâm chiến lược kinh doanh sang thị trường Việt Nam.
Tuy nhiên, doanh nhân Charoen không phải là trường hợp đơn lẻ. Hàng loạt doanh nghiệp Thái khác như SCG, Central Group, C.P. đã và đang âm thầm mở rộng hoặc tiến vào thị trường Việt Nam, bằng cách này hoặc cách khác.
Tiềm năng thị trường Việt
“Nhiều doanh nghiệp Thái đang rất quan tâm đến thị trường Việt Nam. Hiện chúng tôi có một vài thương vụ đang trong quá trình đàm phán và có thể kết thúc trong thời gian ngắn sắp tới”, ông Nguyễn Nam Sơn, Giám đốc Điều hành Quỹ Đầu tư Vietnam Capital Partners, cho biết.
Vietnam Capital Partners từng tư vấn thành công nhiều vụ M&A của các doanh nghiệp Thái Lan tại thị trường Việt Nam. Điển hình nhất chính là thương vụ Công ty The Nawaplastic Industries mua lại 20% cổ phần của Nhựa Bình Minh và 23% cổ phần Công ty Nhựa Tiền Phong vào năm 2012.
Trong khi đóng vai trò là một nhà tư vấn chiến lược kinh doanh và từng có dịp tiếp xúc với rất nhiều doanh nhân Thái Lan, ông Robert Trần, Tổng Giám đốc khu vực châu Á của Tập đoàn Tư vấn chiến lược Robeny (Canada), cho biết khủng hoảng kinh tế cũng như chính trị trong nhiều năm gần đây đã khiến nhiều doanh nghiệp Thái Lan muốn mở rộng ra nước ngoài để tăng thị phần, bù đắp sự thiếu hụt từ thị trường nội địa. Để thực hiện chiến lược này, họ nhắm đến những nước gần nhất và Việt Nam là một trong số đó.
“Cách đây 3 năm trong những cuộc nói chuyện với các doanh nhân người Thái, tôi đã thấy rằng, thị trường họ nhìn thấy không phải chỉ dừng ở 60 triệu dân Thái, mà phải cộng thêm 90 triệu dân của Việt Nam”, ông Robert Trần kể lại.
Theo ông Robert, chiến lược này của các doanh nhân Thái cũng không có gì khó hiểu. Bởi nhận xét một cách công bằng, văn hóa Thái có những nét tương đồng, nhưng hàng hóa của họ lại tốt hơn hàng Việt Nam. Do đó, thị trường rộng lớn tại Việt Nam là điều mà người Thái hoàn toàn có thể “nắm bắt”.
Thực tế, không phải chỉ đến thời điểm này người Thái mới đầu tư vào Việt Nam. Một số tập đoàn lớn của Thái đã xem Việt Nam như một thị trường lớn của họ và đã đầu tư vào rất sớm, có thể tính từ năm 1993.
Tập đoàn Charoen Pokphand (C.P.) đã bắt đầu đầu tư vào Việt Nam từ năm 1993, với nhà máy sản xuất thức ăn gia súc đầu tiên tại tỉnh Đồng Nai. Đến nay, C.P. Vietnam Corp. đang dẫn đầu thị trường cung cấp thức ăn gia súc tại Việt Nam với 18% thị phần. Ngoài ra, hiện C.P cũng chiếm hơn 30% nguồn cung cấp trứng gà và 5% thị phần thịt heo trong cả nước.
Tuy nhiên, trong một thời gian dài sau đó, đầu tư của Thái Lan vào Việt Nam không có dự án nào đáng kể. Đến năm 2012, các công ty Thái mới tăng đầu tư bằng việc nâng cao số lượng và cả giá trị của các thương vụ M&A.
Việc tăng đầu tư vào Việt Nam thời gian gần đây, theo ông Robert Trần, là sự chuẩn bị của người Thái cho việc Việt Nam gia nhập TPP. Ngoài ra, cuối năm 2015 là thời điểm mà Cộng đồng Kinh tế Asean (AEC) với một thị trường chung lên đến 600 triệu người với sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và lao động, có thể sẽ đi vào hoạt động.
Hồi tháng 7, trong buổi giao thương tại Hà Nội, bà Busaba Butrat, Tham tán Thương mại Sứ quán Thái Lan, nhận xét thị trường Việt Nam đang rất thu hút các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại nước này do lợi thế dân số trẻ và có khả năng chi tiêu dùng ngay. Hàng hóa Thái Lan cũng được ưa chuộng tại Việt Nam và cơ hội ngày càng rộng mở khi năm 2015, nhiều hàng hóa nhập khẩu sẽ được miễn thuế.
Từ chiến lược “xương sống”
Đây cũng là lý do có thể giải thích vì sao những vụ đầu tư của doanh nghiệp Thái gần đây đều liên quan đến phân phối.
Ngoài những cuộc “xâm lược” quen thuộc như tỉ phú Charoen mua lại Metro hay chuỗi cửa hàng Family Mart; Trung tâm Bách hóa Robins, thành viên của Tập đoàn bán lẻ Central cũng sẽ khai trương tại TP.HCM; C.P. Việt Nam cũng đã lên kế hoạch hoàn thành hơn 10.000 điểm bán lẻ và cửa hàng trên cả nước với nhiều sản phẩm cạnh tranh với các doanh nghiệp nội địa. Đến nay, C.P. mới đầu tư được 400 cửa hàng bán lẻ mang thương hiệu C.P. Fresh Mart, C.P. Kiosk...
Tại sao họ lại chọn đầu tư vào mảng phân phối trong thời điểm này? Theo ông Robert Trần, đây là một chiến lược cho thấy người Thái nhìn rất rộng và sâu về kinh doanh. Bởi với nền tảng phân phối mạnh, thì những sản phẩm của người Thái sẽ được hưởng lợi.
“Một khi đã làm chủ được kênh phân phối, nếu không thành công với sản phẩm này thì họ có thể làm sản phẩm khác. Đó là chưa nói đến tài sản họ có được là lượng khách hàng, kênh phân phối và bất động sản”, ông Robert phân tích.
Phát biểu trong chuyến thăm Việt Nam mới đây sau khi thực hiện thành công thương vụ Metro Cash & Carry Việt Nam, ông Aswin Techajareonvikul, Giám đốc Điều hành của BJC, nhận định sau khi mua lại Metro, “BJC sẽ có một hệ thống phân phối hàng hóa rộng khắp. Và đây là con đường để họ đưa hàng Việt Nam vào hệ thống của mình, cũng như đưa hàng Thái Lan tới người tiêu dùng Việt Nam”.
Trước đó, sau khi cho ra đời hệ thống cửa hàng B’s mart, BJC đã tăng số lượng hàng Thái chiếm tới 70% tại hệ thống siêu thị này.
Một số thương vụ đầu tư của BJC và SCG
Không chỉ có người Thái, gần đây nhiều nhà bán lẻ của Nhật hay Hàn Quốc cũng đang đầu tư mạnh vào lĩnh vực bán lẻ. Có thể kể đến như Lotte của Hàn Quốc hay Aeon của Nhật. Và một điểm chung là các nhà bán lẻ này ưu tiên sản phẩm từ quốc gia của họ.
Thực ra, hàng Thái ở Việt Nam từ trước đến nay rất được ưa chuộng. Tuy nhiên điểm yếu của họ là chưa được phổ biến trong các cửa hàng bán lẻ. Chiến lược tiếp cận người tiêu dùng của sản phẩm Thái cũng không nổi bật, so sánh với các sản phẩm đến từ Hàn Quốc hay Nhật thông qua các trào lưu văn hóa.
Một cách tiếp cận người tiêu dùng và thị trường phổ biến của người Thái là tổ chức các buổi hội chợ hay triển lãm. Cụ thể, hàng năm Cục Xúc tiến Thương mại, Bộ Thương mại Thái Lan - Văn phòng Thương vụ Thái tại TP.HCM đã tổ chức các Tuần lễ Thái Lan liên tục trong suốt 13 năm qua. Thậm chí, gần đây Cung Văn hóa Lao động cũng thường xuyên trở thành điểm bán hàng do các doanh nghiệp nhập khẩu hàng Thái tổ chức.
Đến chuỗi giá trị khép kín
Không chỉ muốn nắm “xương sống” của thị trường, quan sát chiến lược của các doanh nghiệp Thái đầu tư vào Việt Nam còn cho thấy, họ xác định chiến lược đầu tư bài bản và thường đầu tư theo chuỗi giá trị khép kín, thay vì các ngành đơn lẻ.
C.P. bắt đầu từ lĩnh vực sản xuất thức ăn gia súc, sau đó đã dần khép kín quy trình sản xuất khi bổ sung thêm khâu chế biến thực phẩm và phân phối. Hay như SCG, một tập đoàn vật liệu xây dựng với giá trị tài sản của SCG tại Việt Nam đã xấp xỉ 1 tỉ USD. Mặc dù đã bao gồm 19 lĩnh vực trong ngành, nhưng chiến lược của tập đoàn này vẫn là tiếp tục M&A những lĩnh vực mắt xích mới trong chuỗi sản xuất và cung ứng của họ.
Năm 2012, thông qua The Nawaplastic Industries, SCG trở thành cổ đông lớn của Nhựa Bình Minh và Nhựa Tiền Phong. Năm 2013, SCG đã có một thương vụ lớn khi mua lại 85% cổ phần của Tập đoàn Prime với giá 280 triệu USD.
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn năm 2013, ông Kan Trakulhoon, Chủ tịch Tập đoàn SCG, cho biết SCG sẵn sàng M&A nhiều hơn nữa đặc biệt là ngành xi măng và vật liệu xây dựng. SCG cũng không ngại khi chia sẻ họ mong muốn tăng tỉ lệ sở hữu tại hai công ty nhựa lên 49%.
Trong Nhựa Bình Minh đã có 20% cổ phần của The Nawaplastic Industries, công ty thành viên của SCG
Hay như, việc công bố muốn trở thành đối tác của Sabeco gần đây của ThaiBev dường như cũng nằm trong chiến lược ban đầu của ông Charoen Sirivadhanabhakdi.
Năm 2010, BJC đã chính thức vào Việt Nam khi trở thành đối tác của Sabeco trong Công ty Bao bì Thủy tinh Malaya Việt Nam (Sabeco nắm 30% cổ phần trong Malaya Việt Nam tại thời điểm đó).
Năm 2011, cùng với Tập đoàn Ball (một trong những nhà sản xuất vỏ lon lớn nhất thế giới), BJC tiếp tục đầu tư mạnh vào lĩnh vực sản xuất lon nhôm phục vụ thị trường nước ngọt, bia với một nhà máy tại VSIP II Bình Dương có công suất thiết kế 750 triệu lon/năm.
Rõ ràng, với việc là nhà cung ứng bao bì thủy tinh hằng năm cho Sabeco, Charoen Sirivadhanabhakdi chắc chắn biết được tiềm năng của Sabeco thực sự là như thế nào.